Thiền Sư Huệ Trung

Thiền Sư Huệ Trung (?-769)
(Đời thứ 6 dòng Ngưu Đầu)
Núi Ngưu Đầu, Kim Lăng
Pháp Dung [NGƯU ĐẦU] → Ngưu Đầu Trí Nham → Ngưu Đầu Huệ Phương → Ngưu Đầu Pháp Trì → Ngưu Đầu Trí Oai → Ngưu Đầu Huệ Trung



Sư họ Vương, người Nhuận Châu (nay là huyện Giang Ninh, tỉnh Giang Tô). Năm 23 tuổi, Sư xuất gia ở chùa Trang Nghiêm. Sư nghe thiền sư Trí Oai là bậc xuất thế, bèn đến yết kiến Ngài.
Thiền sư Trí Oai vừa thấy, nói: Sơn chủ đến rồi!

Sư cảm ngộ ý chỉ sâu xa vi diệu, làm thị giả bên thầy. Sau từ biệt thầy, đến các nơi tham lễ.

Thiền sư Trí Oai ở viện Cụ Giới, Ngài thấy dây lăng tiêu gặp mùa hạ héo tàn, người ta muốn chặt nó. Nhân đây Ngài bảo rằng: Đừng cắt. Khi Huệ Trung trở về, dây này lại mọc ra.

Khi Sư quay lại, quả đúng như lời Ngài. Ngài đem sơn môn giao phó cho Sư, dặn dò xong, ra ở chùa Diên Tộ.
*
Sư suốt đời một chiếc áo vá không đổi, đồ dùng chỉ một cái bát, thường có hai kho chứa lương thực để cung cấp cho chúng tăng, kẻ trộm dòm ngó rình rập, có hổ trấn giữ kho.
Huyện lệnh Trương Tốn đến núi đảnh lễ yết kiến hỏi: Thầy có bao nhiêu đồ đệ?

Sư đáp: Có năm, ba người.

Trương Tốn thưa: Làm sao thấy được?

Sư gõ giường thiền, có ba con hổ gầm lớn đi ra.

Trương Tốn sợ hãi, thoái lui.

Sau chúng thỉnh Sư vào thành, ở chùa Trang Nghiêm cũ. Sư muốn dựng riêng một pháp đường ở phía đông chánh điện. Phía trước có cây lâu năm, bầy chim làm tổ trên đó, nhân công sắp đốn cây.

Sư bảo chim rằng: Đất này xây dựng pháp đường, các ngươi sao không đi mau!

Sư nói xong, bầy chim bèn dời tổ qua cây khác. Bắt đầu xây nền nhà, có hai Thần nhân ở bốn góc, âm thầm ban đêm làm việc giúp đỡ, nên vài ngày làm xong.

Từ đây đồ chúng bốn phương vân tập, người đắc pháp có 34 vị, mỗi người trụ mỗi phương, chuyển hóa được nhiều người.

Sư có bài kệ an tâm:

Nhân pháp đều tịnh
Thiện ác đều quên
Trực tâm chân thật
Bồ-đề đạo tràng.

Niên hiệu Đại Lịch thứ ba (768), trước thất đá có cây quế xanh, dây leo quanh cây mùa hạ đang tươi tốt bỗng khô chết.

Niên hiệu Đại Lịch thứ tư (769) ngày 15 tháng 6, Sư tập họp tăng chúng làm lễ Bố Tát xong, sai thị giả cạo tóc, tắm gội sạch sẽ. Đêm đến có mây lành che trên tinh xá, trong không gian lại nghe có tiếng nhạc trời. Sáng sớm (hôm sau) Sư vui vẻ ngồi thị tịch. Khi ấy đột nhiên mưa gió nổi lên, cây rừng chấn động ngã gãy, lại có cầu vồng chiếu xuống hang núi.

Mùa xuân, niên hiệu Đại Lịch thứ năm (770) làm lễ trà tỳ, thu nhiều xá-lợi không tính kể. □



ngưu đầu huệ trung
牛頭山慧忠禪師者,潤州人也。姓王氏。年二十三,受業於莊嚴寺。聞威禪師出世,乃往謁之。威纔見曰:山主來也!
師感悟微旨,遂給侍左右。後辭,詣諸方巡禮。威於具戒院,見凌霄藤遇夏萎悴,人欲伐之,因謂之曰:勿剪。慧忠還時,此藤更生。及師回,果如其言。即以山門付囑訖,出居延祚寺。
師平生一衲不易,器用唯一鐺。嘗有供僧穀兩廩,盜者窺伺,虎為守之。縣令張遜者,至山頂謁問:師有何徒弟?
師曰:有三五人。遜曰:如何得見?師敲禪狀,有三虎哮吼而出。遜驚怖而退。
後眾請入城,居莊嚴舊寺。師欲於殿東別創法堂。先有古木,群鵲巢其上,工人將伐之。師謂鵲曰:此地建堂,汝等何不速去!
言訖,群鵲乃遷巢他樹。初築基,有二神人定其四角,復潛資夜役,遂不日而就。繇是四方學徒雲集,得法者有三十四人,各住一方,轉化多眾。師有安心偈曰:人法雙淨,善惡兩忘。直心真實,菩提道場。
大曆三年石室前挂鐺樹、挂衣藤忽盛夏枯死。四年六月十五日,集僧布薩訖,命侍者淨髮浴身。至夜有瑞雲覆其精舍,空中復聞天樂之聲。詰旦,怡然坐化,時風雨暴作,震折林木,復有白虹貫于巖壑。五年春,荼毗,獲舍利不可勝計。□


< Trở về mục lục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *