Thiền Sư Sùng Huệ

Thiền Sư Sùng Huệ (?-779)
(Đời thứ 6 dòng Ngưu Đầu)
Thiên Trụ Sơn, Thư Châu
Pháp Dung [NGƯU ĐẦU] → Ngưu Đầu Trí Nham → Ngưu Đầu Huệ Phương →
Ngưu Đầu Pháp Trì → Ngưu Đầu Trí Oai → Thiên Trụ Sùng Huệ

Sư họ Trần, người Bành Châu[1]. Đầu niên hiệu Càn Nguyên (758) đời Đường, Sư đến núi Thiên Trụ, Thư Châu sáng lập chùa. Đường Đại Tông, niên hiệu Vĩnh Thái năm đầu (765) được ban biển chùa.

*

Tăng hỏi: Thế nào là cảnh Thiên Trụ.

Sư đáp:

Núi Bạ Chủ cao khó thấy mặt trời.[2]
Trước ngọn Ngọc Kính dễ biết người.

*

Hỏi: Đạt-ma chưa đến, đất này có Phật pháp hay không?

Sư bảo: Chưa đến hãy gác lại, chuyện bây giờ thì sao.

Thưa: Con không hội, xin Thầy chỉ dạy.

Sư bảo: Vạn cổ trời cao, ngày ngày trăng gió.

Tăng không nói được. Sư lại nói: Ông hội chăng.

Tăng thưa: Chẳng hội.

Sư bảo: Trên phần tự kỷ thì thế nào, liên quan gì đến Đạt-ma kia đến hay không đến làm gì. Ông ta đến, giống như gã thầy bói kiếm sống. Thấy ông không biết, vì ông gieo vài quẻ, liền có tốt xấu. Rốt cuộc tại nơi ông thôi, cần tự xem.

Tăng thưa: Thế nào là người giải quẻ.

Sư bảo: Lúc ông vừa ra khỏi cửa, thì là chẳng trúng.

*

Hỏi: Thế nào là gia phong của Thiên Trụ?

Sư đáp:

Lúc có mây trắng đến khép cửa
Lại không trăng gió qua bốn non.

*

Hỏi: Tăng viên tịch đi về chỗ nào?

Sư đáp:

Tiềm Nhạc[3] non cao xanh ngăn ngắt
Thư giang trăng sáng vẻ huy hoàng.

*

Hỏi: Thế nào là Phật Đại Thông Trí Thắng.

Sư bảo: Từ xưa đến nay, chưa từng ngăn trệ, chẳng phải Đại Thông Trí Thắng là cái gì.

Thưa: Tại sao Phật pháp chẳng hiện tiền.

Sư bảo: Chỉ vì ông không hội cho nên chẳng hiện tiền. Ông nếu hội, cũng không có Phật để thành.

*

Hỏi: Thế nào là đạo.

Sư bảo:

Mây trắng che núi xanh
Ong chim lượn hoa trên sân.

*

Hỏi: Từ xưa chư Thánh có lời gì.

Sư bảo: Ông nay thấy ta có lời gì.

*

Hỏi: Việc trong tông môn, xin Sư cử xướng.

Sư bảo:

Trâu đá rống mãi ngoài chân không
Ngựa gỗ hí vang trăng khuất núi.

*

Hỏi: Thế nào là chỗ Hòa thượng vì người.

Sư bảo:

Một cơn mưa rơi khắp
Ngàn núi sắc tốt tươi.

*

Hỏi: Thế nào là Tây lai ý.

Sư bảo:

Vượn trắng ôm con về núi biếc
Bướm ong lượn hoa giữa nhụy xanh.

*

Hỏi: Thế nào là người trong núi Thiên Trụ.

Sư đáp:

Riêng bước ngàn non cao
Nhàn dạo suối chín khúc.

*

Đường Đại Lịch năm thứ mười bốn (779) Sư quy tịch, tháp ở phía Bắc núi. □


Chú thích


[1] Bành Châu cách Thành Đô 19km về phía bắc, tỉnh Tứ Xuyên.

[2] Vào đầu nhà Tống có quan Chủ bạ (Chủ bạ là chức quan văn thư) thích thắng cảnh, ở nơi núi này, nên núi có tên là Chủ Bạ Sơn.

Về sau thấy dáng núi tợ đầu rồng, phía sau núi thế núi như rồng dài lượn quanh nên đổi tên là Tiểu Long Sơn.

[3] Tiềm Nhạc tức Thiên Trụ Sơn, xưa gọi là Nam Nhạc.

Nhà Tống, Tô Thức (Tô Đông Pha) có thơ rằng:

Ngã hữu đồng xá lang,    Ta có người đồng liêu,  
Quan cư tại Tiềm Nhạc.  Làm quan nơi Tiềm Nhạc.



thiên trụ sùng huệ
舒州天柱山崇慧禪師者,彭州人也。姓陳氏。唐乾元初,往舒州天柱山創寺。永泰元年賜額。
*僧問:「如何是天柱境?」師曰:「主簿山高難見日,玉鏡峰前易曉人。」
*問:「達磨未來此土時,還有佛法也無?」師曰:「未來且置,即今事作麼生?」曰:「某甲不會,乞師指示。」師曰:「萬古長空,一朝風月。」僧無語。師復曰:「闍梨會麼?」曰:「不會。」師曰:「自己分上作麼生,干他達磨來與未來作麼?他家來,大似賣卜漢。見汝不會,為汝錐破卦文,纔生吉凶,盡在汝分上,一切自看。」僧曰:「如何是解卜底人?」師曰:「汝纔出門時,便不中也。」
*問:「如何是天柱家風?」師曰:「時有白雲來閉戶,更無風月四山流。」
*問:「亡僧遷化向甚麼處去也?」師曰:「灊嶽峰高長積翠,舒江明月色光暉。
*問:如何是大通智勝佛?師曰:「曠大劫來,未曾擁滯,不是大通智勝佛是甚麼?」曰:「為甚麼佛法不現前?」師曰:「只為汝不會,所以成不現前。汝若會,去亦無佛可成。」
*問:「如何是道?」師曰:「白雲覆青嶂,蜂鳥步庭花。」
*問:從上諸聖有何言說?」師曰:「汝今見吾有何言說?」
*問:「宗門中事,請師舉唱。」師曰:「石牛長吼真空外,木馬嘶時月隱山。」
*問:「如何是和尚利人處?」師曰:「一雨普滋,千山秀色。」
*問:「如何是西來意?」師曰:「白猿抱子來青嶂,蜂蝶御花綠蕊間。」
*大曆十四年歸寂,塔于山之北。 □


< Trở về mục lục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *